Trên thực tế, mỗi bên lại ủng hộ những điều khoản nằm trong lợi ích của mình.
Hiệp định Hòa bình Paris về Việt Nam năm 1973 là một sự nhầm tên bởi vì mãi đến tháng 4/1975 hòa bình mới đến với Việt Nam, và chắc chắn không theo cách mà các điều khoản chính thức của văn bản này đã yêu cầu.
Về cơ bản, Hiệp định tách bạch các vấn đề về quân sự và chính trị, với các vấn đề về quân sự khá rõ ràng còn các vấn đề về chính trị cần nhiều thương lượng so với thực thi – và những vấn đề này có thể không xảy ra một cách thành công. Hiệp định thiết lập một Ủy ban Liên hợp quân sự nhưng vì các quyết định của ủy ban này phải được nhất trí nên nó tất phải thất bại. Hiệp định tạo ra một Ủy ban Kiểm soát và Giám sát quốc tế bao gồm các thành viên thuộc các nước NATO, các nước cộng sản và trung lập, nhưng vì các quyết định của ủy ban này cũng phải được nhất trí nên nó cũng chỉ là hình thức mà thôi.Khi hoàn thành văn bản cuối cùng, Nixon tuyên bố rằng Mỹ công nhận Việt Nam Cộng hòa do tướng Nguyễn Văn Thiệu đứng đầu như “chính phủ hợp pháp duy nhất của Nam Việt Nam”. Điều đó có nghĩa là ông sẽ cổ vũ những phần trong Hiệp định mà ông ủng hộ và phớt lờ phần còn lại. Chế độ Thiệu không công nhận Chính phủ Cách mạng Lâm thời và sẽ chỉ ký một thỏa thuận tách biệt không liên quan tới lực lượng này. Trên thực tế, mỗi bên lại ủng hộ những điều khoản nằm trong lợi ích của mình. Các cuộc chiến tranh cách mạng hiếm khi kết thúc bằng ngoại giao.
Đối với Tổng thống Richard Nixon và cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger, Hiệp định cung cấp thời gian mà cùng với nó họ hy vọng sẽ chiến thắng Cuộc chiến Việt Nam bằng cách bảo với Trung Quốc và Nga – hai nước đang ở trong một tiến trình chia rẽ sâu sắc, rằng nếu họ không hợp tác với Mỹ thông qua cắt viện trợ quân sự cho những người Cộng sản Việt Nam, họ sẽ có các biện pháp tăng cường sức mạnh cho kẻ thù của họ, bằng cách đó đe dọa kích động hai cường quốc cộng sản này chống lại nhau – còn gọi là “phép đạc tam giác”.
Niềm tin rằng ngoại giao khéo léo sẽ thành công đã trói buộc chính phủ Mỹ, và họ tin vào ảo tưởng này cho tới tận khi thực tế ở Việt Nam trở nên không thể đảo ngược. Mỹ công khai nói với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bắc Việt Nam, rằng viện trợ kinh tế sẽ sẵn sàng như một sự “khuyến khích hiển nhiên” nếu họ ngừng “xâm phạm” miền Nam.
Nhưng những người Cộng sản đã dốc hết sức, lại kém xa về quân số và trang thiết bị so với các lực lượng của Thiệu, do Thiệu nhận được một nguồn cung quân sự khổng lồ từ Mỹ mà phần lớn trong số đó họ không thể bảo trì hoặc vận hành. Những vũ khí mới này không chỉ là một sự vi phạm Hiệp định Paris mà chúng còn khuyến khích Thiệu dám liều về quân sự, mà rút cục ông ta đã bị đánh bại.
Thực tế kể trên đã khiến quân đội Mỹ đi đến kết luận rằng tiếp thêm vũ khí cho chính quyền Sài Gòn chỉ lãng phí tiền của (hóa ra đúng như vậy). Hơn nữa, vào năm 1973, nhiều sĩ quan Mỹ hiểu rõ thực tế rằng nhiệm vụ chủ yếu của tư lệnh quân đội của Thiệu là củng cố quyền lực chính trị cá nhân của ông này hơn là phục vụ như một lực lượng chiến đấu hiệu quả – và rằng sự vượt trội về vũ khí của lực lượng này là vô nghĩa.
Thiệu cũng tin rằng Mỹ sẽ trở lại cuộc chiến với các máy bay B-52: các danh sách mục tiêu được vẽ ra. Các kiểm soát viên không gian của Mỹ ở Thái Lan luôn sẵn sàng. Bê bối Watergate của Nixon, rút cục dẫn tới việc ông này từ chức Tổng thống Mỹ, sắp chấm dứt khả năng đó. Tuy nhiên, Thiệu chưa từng nhận ra rằng đồng minh quyền lực và thân cận nhất của ông giờ đã ra đi.
Hiệp định cũng gây chia rẽ trong ban lãnh đạo Việt nam Dân chủ Cộng hòa, với một số người nghĩ có thể phải một thập niên nữa hoặc hơn mới đạt được chiến thắng.
Một dòng vũ khí, và khoảng 23.000 cố vấn người Mỹ và người nước ngoài tới dạy cho quân đội Việt Nam Cộng hòa cách sử dụng và bảo quản vũ khí, khiến cho Thiệu ngày càng tự tin, cộng với cam kết bí mật của Nixon rằng sức mạnh không quân Mỹ sẽ trở lại cuộc chiến nếu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa quân trở lại miền Nam, cam kết mà Quốc hội Mỹ không hề hay biết và rất có thể sẽ phản đối nếu xảy ra.
Nhưng cả Trung Quốc và Liên Xô, mặc dù ngày càng chia rẽ, đều không phản bội những người Cộng sản Việt Nam theo cách và thời gian mà chiến lược ngoại giao của Kissinger hy vọng. Ảo tưởng rằng ngoại giao khôn khéo sẽ thành công khi mà sức mạnh quân sự thất bại đã buộc chặt Nixon và Kissinger cho đến khi tất cả trở nên quá muộn. Hơn nữa, các yếu tố mà sẽ quyết định kết quả cuối cùng của một cuộc chiến trường kỳ đã vượt tầm kiểm soát của Mỹ.
Thiệu đã dùng khoảng thời gian trì hoãn mà Hiệp định mang lại cho ông ta để nỗ lực củng cố quyền lực của mình và trong quá trình đó bắt đầu xa lánh các thành phần trong dân chúng miền Nam không phải là “cộng sản” nhưng muốn kết thúc một cuộc xung đột gây đau thương cho Việt Nam trong nhiều thập niên. Hiệp định được dự kiến, ít nhất có vẻ như vậy, mang lại hòa bình và hòa giải, chứ không phải thêm chiến tranh. Họ không hay biết gì về các giả thuyết suông của Kissinger nhằm cho phép Mỹ cứu vãn “tín nhiệm” của mình.
Người dân thành thị ở Nam Việt Nam khi đó, đặc biệt là các Phật tử, phải chịu một mức độ đàn áp chưa từng thấy bởi chính quyền Thiệu. Báo chí và truyền hình bị kiểm soát ở một mức độ mới, và sự trấn áp càng khiến cho một bộ phận ngày càng đông dân cư thành thị xa lánh. Thiệu còn làm xa lánh cả những đồng minh tự nhiên của ông: nhiều người trở nên trung lập.
Những người tha phương muốn trở lại làng quê ở những khu vực có người Cộng sản nhưng nhìn chung họ bị cấm đoán – một sự vi phạm các điều khoản của Hiệp định. Lúa gạo và hàng hóa bán cho nông dân ở vùng châu thổ sông Mekong bị giám sát chặt chẽ để ngăn không cho lúa gạo tới tay quân Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Trong khi đó, Thiệu sử dụng nguồn vũ khí dồi dào mà Mỹ cung cấp cho ông ta, đặc biệt là pháo, và đến năm 1974, một cuộc chiến tranh nóng đã tái diễn (nhưng không có quân đội Mỹ), với quân đội Việt Nam Cộng hòa ARVN nổ súng ác liệt hơn nhiều so với những người Cộng sản.
Thực tế, dù dự kiến đạt được gì thì Hiệp định Paris 1973 chỉ mang lại một khoảng thời gian tạm lắng trong Cuộc chiến Việt Nam. Sai lầm của Thiệu là không nỗ lực làm cho Hiệp định Hòa bình có hiệu lực, chia sẻ một chút quyền lực với các Phật tử, với tầng lớp trung lưu, thậm chí với một số người Cộng sản – mà phần lớn họ là những người dân tộc chủ nghĩa thực sự. Thay vào đó, ông ta nghĩ sự vượt trội về vũ khí sẽ cho phép mình giành toàn thắng. Thiệu đã quá nhầm, và phải kết thúc trong cảnh sống tha hương khi quân đội của ông ta tan rã vào mùa xuân năm 1975.
—–
* Tác giả Gabriel Kolko là sử gia hàng đầu về chiến tranh hiện đại. Ông là tác giả cuốn Century of War: Politics, Conflicts and Society Since 1914 and Another Century of War. Ông cũng là sử gia nổi tiếng về chiến tranh Việt Nam, với tác phẩm: Anatomy of a War: Vietnam, the US and the Modern Historical Experience. (Tạm dịch Giải phẫu một cuộc chiến tranh : Việt Nam, Mỹ và kinh nghiệm lịch sử).
SN dịch (COUNTER PUNCH)
Hiện chưa có phản hồi nào.