Có 22 đại biểu quốc hội (ĐBQH) đã đặt câu hỏi cho Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng trong phiên chất vấn sáng nay (25.11). Tuy nhiên, do thời gian có hạn nên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ có thể trả lời các vấn đề: chủ trương của Chính phủ về đối ngoại để đảm bảo chủ quyền biển đảo; căn cứ đề xuất xây dựng luật biểu tình, chủ trương đối với những người tập trung biểu thị lòng yêu nước và khai thác khoáng sản…
Bốn vấn đề đối ngoại trên biển Đông
ĐB Lê Bộ Lĩnh (An Giang) hỏi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về những giải pháp cụ thể mà Chính phủ thực hiện để bảo vệ chủ quyền biển đảo, quan điểm và chủ trương của Chính phủ đối với việc người dân biểu thị lòng yêu nước về chủ quyền biển đảo.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói rõ: Chủ trương của Chính phủ là đảm bảo chủ quyền của ta ở biển Đông, bảo đảm cho ngư dân của ta đánh bắt ở biển Đông.
Quán triệt đường lối đối ngoại của VN, trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Luật biển UNCLOS 1982, tuyên bố ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) đã ký giữa ASEAN và Trung Quốc (TQ), căn cứ vào thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa VN và TQ mới đây, căn cứ trên những cơ sở đó, chúng ta phải giải quyết và khẳng định chủ quyền đối với 4 loại vấn đề trên biển Đông.
1. Đàm phán với Trung Quốc để phân định ranh giới ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ
Trong vịnh thì sau nhiều năm đàm phán ta và TQ đã đạt được thỏa thuận vào năm 2000. Còn vùng biển ngoài vịnh Bắc Bộ, theo luật quốc tế, thềm lục địa của chúng ta có chồng lấn với đảo Hải Nam của TQ. Từ năm 2006 hai bên đã tiến hành đàm phán, mãi đến năm 2009 thì hai bên tạm dừng vì lập trường hai bên còn rất khác xa nhau.
Đầu năm 2010 thỏa thuận là nên tiến hành đàm phán những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết những vấn đề trên biển. Sau nhiều vòng đàm phán, các nguyên tắc đã được thống nhất và kí kết nhân chuyến thăm TQ của Tổng bí thư vừa qua.
Vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ là quan hệ giữa VN và TQ vì vậy hai nước cùng nhau đàm phán để phân định ranh giới vùng biển này, trên cơ sở UNCLOS và DOC, trên cơ sở các nguyên tắc đã thỏa thuận, để có những giải pháp hợp lí mà hai bên có thể chấp nhận được. Ta đang cùng TQ thúc đẩy, xúc tiến cùng TQ giải quyết cái phân định này.
Trong khi chưa phân định, trên thực tế, với chừng mực khác nhau, hai bên cũng đã tự hình thành vùng quản lý của mình, trên cơ sở đường trung tuyến. Trên cơ sở này mà chúng ta có đối thoại với TQ, để đảm bảo an ninh, an toàn trong khai thác nghề cá của đồng bào chúng ta.
2. Giải quyết và khẳng định chủ quyền vấn đề quần đảo Hoàng Sa
VN chúng ta khẳng định có đủ căn cứ về pháp lý và lịch sử để khẳng định rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc chủ quyền của VN. Chúng ta đã làm chủ thực sự ít nhất là từ thế kỉ 17, đã làm chủ khi hai quần đảo chưa thuộc bất kì quốc gia nào, làm chủ trên thực tế, liên tục và hòa bình.
Nhưng đối với Hoàng Sa thì năm 1956, TQ đưa quân chiếm đóng các quần đảo phía Đông của quần đảo. Năm 1974, TQ dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong sự quản lý hiện tại của Chính quyền Sài Gòn (tức Chính quyền VN Cộng hòa). Chính quyền VN Cộng hòa đã lên tiếng phản đối, lên án việc làm này và đề nghị Liên Hiệp Quốc can thiệp.
Chính phủ Cách mạng lâm thời cách mạng miền Nam VN lúc đó cũng đã ra tuyên bố phản đối hành vi chiếm đóng này. Lập trường nhất quán của VN là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của VN. Chúng ta có đủ căn cứ lịch sử và pháp lý để khẳng định điều này. Nhưng chúng ta chủ trương đàm phán, giải quyết, đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình. Chủ trương phù hợp với hiến chương Liên Hiệp Quốc, UNCLOS và DOC.
3. Vấn đề quần đảo Trường Sa
Năm 1975, giải phóng miền Nam, hải quân ta tiếp quản 5 đảo thuộc quần đảo Trường Sa: Trường Sa, Song Tử Tây, Sinh Tồn, Nam Yết và Sơn Ca. Sau đó, với chủ quyền chúng ta mở rộng thêm lên 21 đảo và còn xây dựng 15 nhà giàn ở khu vực bãi Tư Chính để khẳng định chủ quyền của VN ở vùng biển này, vùng biển trong phạm vi thuộc 200 hải lí thềm lục đia và vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN.
TQ chiếm 7 đảo đá ngầm. Đài Loan 1 đảo nổi. Philippines 9 đảo, Malaysia chiếm 5 đảo. Brunei đòi chủ quyền nhưng không chiếm giữ đảo nào.
VN là quốc gia có số đảo đang đóng giữ nhiều nhất so với các quốc gia và có đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa. VN cũng là quốc gia duy nhất có cư dân đang làm ăn sinh sống trên một số đảo mà ta đang nắm giữ với 21 hộ và 80 khẩu, với 6 khẩu sinh ra và lớn lên ở các đảo này.
Chủ trương của ta đối với chủ quyền ở quần đảo Trường Sa như thế nào? Chủ trương của chúng ta là nghiêm túc thực hiện UNCLOS, DOC, và các nguyên tắc thỏa thuận mới đây đã kí kết giữa VN và TQ. Cụ thể, chúng ta yêu cầu các bên giữ nguyên trạng, không làm phức tạp thêm, có ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định ở khu vực này.
Thứ hai là chúng ta tiếp tục đầu tư nâng cấp hạ tầng kinh tế – xã hội – cơ sở vật chất kĩ thuật ở các nơi ta đang nắm giữ bao gồm: đường sá, điện nước, trạm xá, trường học… để cải thiện đời sống và tăng cường khả năng tự vệ của quân dân trên quần đảo Trường Sa.
Ba là, chúng ta có cơ chế chính sách, hiện đã có, đang sơ kết, đánh giá lại, để hỗ trợ đồng bào đang khai thác đánh bắt cá, thủy hải sản ở khu vực biển này, làm ăn sinh sống và thực hiện chủ quyền ở khu vực Trường Sa.
Cam kết quốc tế. Chúng ta nghiêm túc thực hiện và yêu cầu các bên nghiêm túc thực hiện theo đúng UNCLOS và DOC, bảo đảm tự do hàng hải ở biển Đông. Đây là mong muốn và lợi ích của tất cả các bên liên quan. Biển Đông là tuyến đường vận tải hàng hóa từ Đông sang Tây, chiếm khoảng 50-60% tổng lượng vận tải hàng hóa trên biển từ Đông sang Tây.
Lập trường này của VN được cộng đồng quốc tế ủng hộ của quốc tế, thể hiện ở hội nghị ASEAN, hội nghị ASEAN và đối tác mới đây…
4. Giải quyết và khẳng định chủ quyền của chúng ta trong phạm vi 200 hải lí thuộc đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam theo UNCLOS 1982.
Chúng ta đã và sẽ tiếp tục khẳng định chủ quyền để quản lý, thực hiện chủ quyền ngày càng đầy đủ và và hiệu quả hơn.
Xây dựng Luật Biểu tình: Đảm bảo quyền tự do dân chủ
Trả lời câu hỏi căn cứ vào đâu để Chính phủ đề nghị QH nghiên cứu xây dựng Luật Biểu tình, Thủ tướng trả lời có những căn cứ sau:
Căn cứ dựa vào Hiến pháp, điều 69 quy định công dân được quyền biểu tình theo quy định. Chúng ta chưa có luật Biểu tình, như vậy chúng ta nên bắt tay xây dựng Luật Biểu tình.
Thứ hai, thực tế trong cuộc sống có nhiều cuộc đồng bào tụ tập đông người biểu tình, bày tỏ nguyện vọng, kiến nghị với chính quyền. Thực tế là thế. Nhưng ta chưa có luật để quản lý, điều chỉnh vấn đề này. Do đó cũng khó cho người dân khi thực hiện quyền mà Hiến pháp quy định và cũng khó cho quản lý của chính quyền. Khó như vậy thì sẽ nảy sinh lúng túng trong quản lý, từ đó xuất hiện những biểu hiện mất an ninh trật tự hoặc lợi dụng kích động, xuyên tạc gây phương hại xã hội.
Trước thực trạng trên, Chính phủ đã có báo cáo kiến nghị với QH khóa trước, QH khóa trước cũng có công văn yêu cầu Chính phủ ban hành nghị định để quản lý hiện tượng này. Chính phủ đã ban hành Nghị định 38 nhưng nghị định của Chính phủ thì hiệu lực pháp luật thấp, chưa đáp ứng yêu cầu của Hiến pháp, chưa đáp ứng thực tế cuộc sống đang đặt ra.
Vì vậy, Chính phủ mới thấy rằng nên kiến nghị QH xem xét, đưa vào xây dựng luật, và luật đó phù hợp Hiến pháp, phù hợp đặc điểm lịch sử văn hóa, điều kiện cụ thể của VN cũng như phù hợp với thông lệ quốc tế, cũng để đảm bảo quyền tự do, dân chủ của người dân theo Hiến pháp, pháp luật. Đồng thời luật đó cũng có ngăn chặn các hành vi gây xâm hại an ninh trật tự, lợi ích của xã hội và nhân dân.
Với tinh thần đó, chúng tôi đề nghị QH xem xét ý kiến của Chính phủ về Luật Biểu tình.
Hoan nghênh người dân yêu nước
Trả lời câu hỏi của ĐB muốn hỏi về thái độ và chủ trương của Chính phủ về việc người dân biểu thị lòng yêu nước, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: Chủ trương nhất quán của Đảng và Chính phủ là luôn trân trọng biểu dương, khen thưởng xứng đáng với tất cả hoạt động, việc làm của người dân vì mục tiêu yêu nước, bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Những hoạt động vì mục tiêu, mục đích đó đều được trân trọng, hoan nghênh và khen thưởng thích đáng. Nhưng đồng thời cũng không hoan nghênh và buộc phải xử nghiêm theo pháp luật đối với những hành vi với động cơ lợi dụng danh nghĩa lòng yêu nước, bảo vệ chủ quyền để gây phương hại cho đất nước và xã hội. Tôi nghĩ với chủ trương nhất quán như vậy, đồng chí đồng bào cử tri cả nước sẽ ủng hộ.
Rà soát dự án khoáng sản
Để quản lý tốt hơn việc khai thác khoáng sản, tránh tình trạng khai thác trái phép, ô nhiễm môi trường, Thủ tướng khẳng định: khoáng sản có giá trị quý hiếm, tài nguyên không tái tạo. Do vậy, cần xây dựng nhiều quy hoạch khai thác khoáng sản phục vụ cho kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, Thủ tướng thừa nhận từ việc quy hoạch cho đến khai thác còn nhiều bất cập.
Do vậy, hiện tại Chính phủ đã chỉ đạo mấy giải pháp lớn, yêu cầu chính quyền các địa phương, các cơ quan chức năng tập trung chỉ đạo, ngăn chặn việc khai thác khoáng sản không phép, trái phép. Không có lý gì chính quyền địa phương không biết những điểm khai thác không phép, trái phép.
Chính phủ tạm dừng cấp phép mới khai thác khoáng sản; rà soát các dự án đang khai thác mà gây ô nhiễm môi trường, hư hỏng đường xá, mất an ninh, những dự án kiểu này phải dừng ngay; rà soát bổ sung quy hoạch theo hướng khai thác sâu và sử dụng cao hơn.
Chính phủ kiểm soát việc xuất khẩu tại các dự án. Cái nào trái quy định, trái giấy phép thì dừng lại. Hoặc cái nào xuất không có lợi thì cũng có giải pháp để dừng lại. Cấp phép mới phải đi kèm dự án khả thi đã được cấp có thẩm quyền thẩm định.
Trước khi trả lời chất vấn các ĐBQH, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đã có báo cáo giải trình thêm với QH về các vấn đề cập nhật kinh tế – xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn, ổn định sản xuất kinh doanh… (bạn đọc có thể theo dõi thêm tại đây).
Thành Trung
Thủ tướng đưa ra 4 vấn đề là rất chính xác, cần công bố tất cả các tài liệu lịch sử ra thế giới bằng nhiều thứu tiếng!